Công dụng sâm Ngọc Linh trong phòng ngừa ung thư, chống stress và bảo vệ tế bào gan

Ngày đăng: 11:56 AM 29/05/2021 - Lượt xem: 790

 

 

 Thành phần hoá học:

 

       Các công bố kết quả hoá thực vật của sâm Ngọc Linh (viết tắt là VG) tập trung chú ý vào phần dưới mặt đất (rễ và thân rễ). Kể từ báo cáo đầu tiên vào năm 1993 cho đến nay, 52 saponin hầu hết thuộc dammarane triterpene đã được xác định, chúng thuộc một trong các nhóm protoPanaxadiol (PPD), protopnaxatriol (PPT) và occotillol (OT), ngoại trừ hai saponin loại oleane (ginsenoside R­o và hamsloside Ma3) [Hình 2a-c].

 

       Trong số đó, ginsenoside Rb1 (G-Rb1), Rb2 (G-Rb2), Rd (G-Rd), Re(G-Re), Rg1 (G-Rg1), majornoside R1 (MR1), MR2, notoginsenoside R1, vinaginsenoside R1 (VR1), vinaginsengnoside R2 và vinaginsenoside R11 là saponin chính trong VG [Hình 2b]. Ở dạng thô hoặc chưa qua chế biến, hàm lượng saponin của sâm Việt Nam không chỉ cao hơn về hiệu suất mà có hướng nhiều hơn về cả số lượng và sự da dạng cấu trúc so với sâm Mỹ (AG), sâm Hàn Quốc (KG). Trong AG và KG, số saponin là <40 và thuộc loại PPD và PPT. Trong khi đó, VG vượt trội hơn, các saponin loại OT như MR1, MR2, VR1 và VR2 chiếm >50% tổng hàm lượng saponin và đáng chú ý là MR2 rất cao (khoảng 5%).[Hình 3][12]­. Những phát hiện này có thể liên quan đến hoá thực vật của VG và các loài Panax khác.

 

       Nhân sâm đã được sử dụng rộng rãi hơn dưới dạng hồng sâm qua đun nóng hoặc hấp. Tương tự như vậy, VG sau khi hấp gần đây đã được nghiên cứu, kết quả sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC thu được sau khi hấp cho thấy hàm lượng của các ginsenoside phân cực, chẳng hạn như Rb1, Rc, Rd, Re và Rg1 đã giảm nhanh chóng, trong khi các ginsenoside ít phân cực hơn như Rg3, Rg5, Rk1, Rk3 và Rh4 được tăng lên. Tuy nhiên, saponin OT, không có gốc glycosyl ở vị trí C-20, hàm lượng ổn định khi hấp.[13]

 

       Tác dụng dược lý:

 

       Khả năng chống ung thư:

 

       Tác dụng dược lý được nghiên cứu nhiều nhất của VG là phòng ngừa ung thư, hoá trị liệu ung thư và mối liên quan với hoạt chất OT ginsenoside.

 

       Yamasaki báo cáo rằng dịch chiết VG thô và sapoin của VG (MR1, MR2, G-Rb1, G-Rb2, G-Rd, G-Re và G-Rg1) trong nghiên cứu in vitro thể hiện tác dụng ức chế đối với sự hoạt hoá sớm kháng nguyên của virus Epstein-Barr (EBVEA) gây ra bởi 12-0-tetradecanoylphorbol-13acetate (TPA) hoặc fumonisin B1 mà không gây độc lên tế bào bình thường. Đáng chú ý là MR2, saponin chính trong VG, thể hiện tác dụng ức chế mạnh nhất đối với sự hoạt hoá EBVEA và hoạt động hiệu quả hơn so với acid glycyrrhizic từ cam thảo, chất được biết có khả năng kháng khối u mạnh.[15] Ngoài ra, nghiên cứu  in vivo cho thấy tác dụng ức chế MR2 đối với thử nghiệm gây ung thư 2 giai đoạn (khởi đầu và thúc đẩy) của một số mô hình khối u trên da chuột gây ra bởi 7,12-dimethylbenz[a] anthracene/TPA, nitric oxide/TPA, và peroxynitrite/TPA và ung thư gan ở chuột gây ra bởi N-nitrosodiethylamine/phenobarbital.[16]

 

       VG cho thấy khả năng chống tăng sinh đối với tế bào ung thư phổi A549 và khi hấp, tác dụng của chế phẩm quy ước tăng ấn tượng. Sự tăng khả năng chống ung thư được chứng minh bằng sự phân huỷ hoá học các saponin ban đầu thành các ginsenoside ít phân cực hơn như Rg3, Rg5, Rk1, Rk3 và Rh4 trong quá trình hấp.

 

       Cơ chế chống lại ung thư của VG ở mức độ tế bào đã được nghiên cứu. Ảnh hưởng của MR2 đến chu kỳ tế bào của tế bào Raji được điều trị với TPA đã được kiểm tra bằng phương pháp phân tích tế bào theo dòng chảy và tìm ra bằng chứng về sự ảnh hưởng của MR2 trong các pha S và G2+M.[14,16]. Tóm lại, hàm lượng saponin OT MR2 trong VG có tiềm năng trong việc phòng ngừa ung thư.

 

       Tác dụng bảo vệ gan:

 

       Một tác dụng dược lý khác của VG là bảo vệ gan, đã được nghiên cứu trên cả mô hình tế bào và mô. Năm 2000, Nguyễn cùng các cộng sự phát hiện ra rằng dịch chiết saponin của VG ngăn ngừa một phần ngộ độc gan ở chuột gây ra bởi CCl4 .[17] Ở nghiên cứu sau, Trần cùng các cộng sự báo cáo tác dụng bảo vệ tế bào gan mạnh mẽ của chiết xuất VG thông qua việc chống lại D-GaIN/yếu tố hoại tự khối u alpha (TNF-alpha) gây nên chết tế bào và chứng minh thêm rằng tác dụng bảo vệ tế bào gan của VG là do sự hiện diện của saponin kiểu OT, một thành phần hoá đặc trưng của VG.[11] Saponin OT chính, MR2 cho thấy khả năng bảo vệ tế bào gan của chuột bằng cách giảm mức độ hoạt hoá men gan sGPT và sGOT trong mô hình tổn thương gan ở chuột, cơ chế bảo vệ cơ bản có liên quan đến quá trình chết tế bào theo chương trình, sự phân mảnh nucle DNA và sự ngưng tụ chất nhiễm sắc trong những tế bào được điều trị bằng MR2.[18]

 

       Trong các nghiên cứu sâu hơn, MR2 làm giảm đáng kể việc sản xuất TNF-alpha trên chuột dùng D-galctosamine/lipopolisaccharide (D-GaIN/LPS), một chất chủ yếu gây tổn thương gan. MR2 còn có cả khả năng cải thiện sự tồn tại của tế bào gan. Tóm lại, có thể kết luận rằng MR2 không những cho thấy khả năng bảo vệ tế bào gan thông qua việc ức chế TNF-alpha tiết ra từ các đại thực bào được hoạt hoá mà còn ức chế quá trình chết tế bào theo chương trình gây ra bởi TNF-alpha.

 

       Tác dụng chống stress:

 

       Thông thường, VG được sử dụng để tăng cường và phục hồi thể lực, những yếu tố liên quan chặt chẽ đến tác dụng chống stress. Tác dụng chống stress của VG lần đầu tiên được chứng minh thông qua việc chống mệt mỏi và tăng khả năng thích ứng. Trong nghiên cứu sau đây, Hường cùng các cộng sự báo cáo những tác dụng tích cực của VG và saponin chính trong VG, MR2, về hành vi và sinh lý bệnh của chuột bị căng thẳng tâm lý gây nên bởi phương pháp "The communication box" và cơ chế thần kinh cơ bản. [20-22] Điều trị dự phòng với dịch chiết VG và MR2 ngăn chặn sự giảm nhạy cảm cảm giác đau gây nên bởi stress. Bởi vì cả flumazenil và picrotoxin đều ngăn chặn hoàn toàn tác dụng đối kháng của MR2 với tác dụng giảm đau của opioid. Có vẻ như MR2 ngăn chặn sự giảm nhạy cảm cảm giác đau gây nên bởi stress bằng cách điều chỉnh hoạt động của opioid. Tương tự, điều trị dự phòng với dịch chiết VG và MR2, diazepam hoặc naloxone có tác dụng bảo vệ dạ dày khỏi các tổn thương gây nên bởi stress. Ngoài ra, dịch chiết VG, saponin của VG và MR2 đã cho thấy khả năng phục hồi tác dụng an thần của pentobarbital so với chuột đối chứng không stress. Về cơ chế, MR2 có tác dụng giống như một chất đối kháng trên phức hợp thụ thể GABAA-benodiazepine.[21-26]

 

       Những phát hiện này cho thấy tác dụng chống trầm cảm của VG, đặc biệt là MR2 trong các bệnh lý rối loạn tâm thần do tình trạng stress gây ra[27] và cho thấy tiềm năng xa hơn trong việc sử dụng VG như một thuốc điều trị.